Kiến thức cơ bản về trẻ tự kỷ

1. Định nghĩa:
Tự kỷ là một hội chứng rối loạn phát triển lan tỏa ở trẻ em, bao gồm những khiếm khuyết nặng nề về khả năng tương tác xã hội, giao tiếp và những quan tâm, hoạt động bó hẹp, định hình. Trẻ tự kỷ điển hình có thể bị rối loạn nhiều kỹ năng phát triển như: tư chăm sóc, ngôn ngữ, giao tiếp ứng xử, quan hệ xã hội, hành vi, cảm xúc, trí tuệ…
Theo phân loại của Hội tâm thần Mỹ, có 5 chứng thuộc các rối loạn lan tỏa kiểu tự kỷ, bao gồm:
1. Hội chứng Asperger
2. Chứng tự kỷ điển hình
3. Hội chứng Rett
4. Hội chứng thoái triển ở trẻ em
5. Các rối loạn phát triển không đặc hiệu ứng
1.1 Hội chứng Asperger:
Được thầy thuốc nhi khoa người Áo tên là Hans Asperger mô tả đầu tiên vào năm 1944. Tần suất gặp vào khoản 1 trên 250 trẻ. Người lớn và trẻ em bị hội chứng này thường có năng lực trí tuệ tương đối bình thường nhưng có một số đặc điểm như sau:
· Khiếm khuyết về quan hệ xã hội:
o Kém về khả năng kết bạn so với các trẻ cùng tuổi khác
o Sử dụng các kỹ năng không lời kém, chẳng hạn: nhìn bằng mắt, thể hiện bằng nét mặt, ngôn ngữ cơ thể… để kiểm soát giao tiếp xã hội.
o Thiếu sự giao lưu về xã hội, tình cảm và thấu cảm.
o Mất khả năng nhận biết về những ám chỉ, quy ước xã hội.
· Khiếm khuyết các kỹ năng giao tiếp tinh tế:
o Lời nói của trẻ lưu loát nhưng có khó khăn về hội thoại như: nội dung cứng nhắc, mô phạm, ngữ điệu không bình thường và có xu hướng hiểu theo nghĩa đen của thông điệp giao tiếp.
· Mối quan hệ hạn chế
o Có những quan tâm đặc biệt , bất thường về cường độ và sự tập trung
o Có xu thế các cử động định hình và cố định.
Bên cạnh những dấu hiệu điển hình đó, có một số biểu hiện khác thường gặp như: tay chân vụng về, thuận tay trái, nhạy cảm với âm thanh, sờ chạm. Thiếu niên hoặc người lớn bị bệnh này thường kém trong việc phân bố thời gian, trong việc thể hiện ý nghĩ và lời nói. Họ cũng có khó khăn trong kiểm soát và thể hiện cảm xúc của mình.
1.2 Hội chứng Rett
Hội chứng Rett là một trong 5 trường hợp rối loạn phát triển, khá hiếm gặp và chỉ thấy ở trẻ gái. Tần suất gặp là 1 trên 10.000-15.000 trẻ. Trẻ có một thời kỳ phát triển gần như bình thường ở độ tuổi 6-18 tháng. Sau đó xuất hiện các triệu chứng “thoái triển” và khác biệt hoàn toàn với tự kỷ. Não và đầu trẻ không phát triển nữa. Trẻ bị chậm phát triển về mặt xã hội và trí tuệ ngày càng nặng. Trẻ không đáp ứng lại với cha mẹ và quay lưng lại với tiếp xúc xã hội. Trẻ đang nói sẽ dần không nói được. Trẻ đi lại kém thăng bằng, tay trở nên không sử dụng được nữa và thường có những cử động định hình như: xoắn vặn, vỗ đập tay…Trẻ bị hội chứng Rett hay bị co giật và thường gặp hiện tượng thủ dâm. Những nghiên cứu về di truyền cho thấy đột biến chuỗi gen có thể gây ra hội chứng Rett.
Hội chứng Rett có khác biệt lớn hơn so với tự kỷ: thoái triển cả ngôn ngữ và vận động; trí tuệ chậm nặng. Trong khi trẻ bị tự kỷ không bị rối loạn vận động, trí tuệ phát triển bình thường. Trẻ bị chứng Rett thường nhìn chằm chằm trong khi trẻ tự kỷ liếc mắt rất kém. Trẻ bị tự kỷ cũng có các hành vi định hình nhưng những cử động đó phức tạp và đa dạng, ít khi cả hai tay thu về đường giữa (Còn trong hội chửng Rett lại thường thấy).
1.3 Hội chứng thoái triển ở trẻ em
Có rất ít trẻ bị tự kỷ được chuẩn đoán là hội chứng mất hòa nhập. Qua nhiều cuộc điều tra, người ta thấy chỉ có khoảng 2/100.000 trẻ mắc phải hội chứng này. Thông thường trẻ phát triển về giao tiếp và xã hội hầu như bình thường cho tới 3-4 tuổi. Giai đoạn phát triển bình thường khá dài rồi mới bị thoái triển giúp phân biệt hội chứng bất hòa nhập với hội chứng Rett. Trẻ bị chứng này khác so với tự kỷ “kinh điển” ở chỗ bị khiếm khuyết nặng nề vận động, giao tiếp và về quan hệ xã hội. Khác với tự kỷ, trẻ bị mất ngôn ngữ nặng, kém về kỹ năng xã hội và vui chơi. Bên cạnh đó, trẻ còn bị kiểm soát đại tiểu tiện, động kinh và chậm phát triển trí tuệ nặng.
1.4 Các rối loạn phát triển không đặc hiệu ứng
Đây là nhóm các rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu, bao gồm tất cả những trường hợp không phải những bệnh lý đã nêu trên. Trẻ cũng bị rối loạn về tương tác xã hội, giao tiếp và hành vi. Các tiêu chí để nhận biết gồm:
- Khiếm khuyết của một trong 3 kỹ năng trên quá “nhẹ” để chuẩn đoán nhưng quá nặng để xếp vào bệnh lý nhẹ hơn (được coi là tự kỷ nhẹ)
- Tuổi xuất hiện sau 30 tháng.
- Là sự xếp loại nhất thời khi các dấu hiệu quyết định như thời điểm xuất hiện các khiếm khuyết giao tiếp xã hội đều gới ý một dạng tàn tật khác như: loạn thần, loạn ngữ nghĩa và sử dụng ngôn ngữ…
1.5 Dịch tễ học và chứng tự kỷ
Ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, các thống kê đều cho thấy tỷ lệ tỷ lệ trẻ mắc chứng tự kỷ gia tăng một cách đáng kể. Thậm chí có tác giả còn gọi đó là một bệnh dịch. Chẳng hạn ở Mỹ, những năm 80 của thế kỷ trước, người ta thống kê được số trẻ mắc tự kỷ chỉ chiếm tỷ lệ 1/2000 trẻ. Nhưng hiện nay tỷ lệ này là 6/2000 trẻ (từ 1/500 trẻ dến 1/166 trẻ). Tăng 12.04%. Đây thự sự là sự gia tăng quá lớn sau 2 thập kỷ. Thống kê của Anh cũng cho thấy tình cảnh tương tự. Hiện nay, tỷ lệ mắc chứng này ở đất nước này vào khoảng 1/150 trẻ.
Cũng theo thống kê của Mỹ về một số dạng tật trẻ em, thấy rằng tỷ lệ mắc của tự kỷ thấp hơn so với chậm phát triển trí tuệ (9,7 trên 1000 trẻ), nhưng cao hơn so với tỷ lệ mắc của bại não (2,8 trên 1000), khiếm thính (1,1 trên 1000) và khiếm thị (0,9 trên 1000 trẻ ở độ tuổi 3-10 tuổi).
Tỷ lệ mắc của một số dạng tật trẻ em ( Center of Diseases Control 2003-Mỹ). Ở trong nước cũng thấy hiện tượng ngày càng gia tăng về những trường hợp tự kỷ mới. Trước kia vào khoảng thập kỷ 80, còn có nhiều chuyên gia cho rằng ở Việt Nam không có trẻ bị tự kỷ. Khái niệm tự kỷ còn rất xa lạ đối với các chuyên gia y tế nói chung và thầy thuốc khoa nhi nói riêng. Thậm chí vấn đề tự kỷ mới chỉ được đưa vào nội dung giảng dạy của trường Đại học Hà Nội trong vài năm trở lại đây. Hiện nay việc trẻ tự kỷ có thể gặp ở bất kỳ cơ sở y tế hay giáo dục nào là thực tế.
a. Các dấu hiệu của chứng tự kỷ:
Tự kỷ có biểu hiện đặc trueng bằng 3 lĩnh vực:
Khó khăn về quan hệ xã hội:
Trẻ không biết khởi xướng, bắt đầu làm quen hoặc khó tiếp nhận một người bạn mới. Trẻ ít quan tâm và không có nhu cầu chia sẻ hứng thú, nhu cầu và hoạt động với bạn bè và mọi người xung quanh.
– Không thưa khi gọi tên.
– Không nhìn mặt người đối thoại khi chơi, giao tiếp
– Tỏ ra không nghe thấy ai lúc đó (trẻ như không ở đó)
– Kháng cự lại sự vuốt ve, ôm ấp hoặc âu yếm.
– Tỏ ra không biết đến tình cảm của người khác.
– Có vẻ thích chơi một mình-co lại trong thế giới riêng của trẻ.
Khiếm khuyết về khả năng ngôn ngữ và giao tiếp
+ Nếu chưa biết nói: trẻ có khiếm khuyết trong việc sử dụng các kỹ năng giao tiếp không lời như:
– Không nhìn mặt người đối thoại khi giao tiếp
– Không hiểu và không sử dụng nét mặt, cử chỉ, tư thế cơ thể để giao tiếp
– Các âm thanh lời nói bất thường về cao độ hoặc cường độ.
– Không biết yêu cầu, phản đối hoặc thể hiện các nhu cầu bản thân
– Không hoặc khó học các luật lệ về giao tiếp như: chào hỏi, xin đồ vật hoặc “ạ”, “bai, bai”…
+ Nếu trẻ đã nói được
– Trẻ học nói muộn hơn trẻ bình thường
– Mất khả năng nói được từ đơn hoặc cả câu sau khi đã biết nói.
– Trẻ dùng phát ngôn không phù hợp với mục đích: đáng lẽ trả lời thì trẻ nhắc lại câu được hỏi, nói nhại, nói vọng,…Phát ngôn hoặc câu của trẻ có ngữ điệu đơn điệu, nghe véo von, thường có âm sắc cao hơn bình thường.
– Nếu trẻ có ngôn ngữ khá hơn, có thể thấy chậm phát triển ngôn ngữ so với trẻ cùng độ tuổi. Trẻ thường không hiểu câu hỏi, ngôn ngữ của trẻ đơn giản, hiếm dùng những khái niệm so sánh, tưởng tượng.
Các hành vi và các mối quan tâm bất thường
– Các hành vi hoặc cử động định hình, lặp đi lặp lại: trẻ như bị cuốn hút vào một cử chỉ, một hoạt động hoặc trò chơi nào đó hang giờ hoặc cả buổi. Ví dụ: xoắn cả buổi, vê vê ngón tay, vò giấy, quay bánh xe ô tô (đồ chơi)…
– Trẻ có thể thích duy nhất một đồ vật, hoặc chỉ chơi với một người nào đó trong gia đình…
– Trẻ có thể chỉ quan tâm và vê, xoay một chi tiết của vật: bánh xe, ống khói,…
– Trẻ có thể có những phát ngôn hoặc phát ra âm thanh nào đó một cách định hình: tự phát, không có chủ ý và trong mọi tình huống…
– Trẻ có thể nhạy cảm với một số loại kích thích (khi bị vuốt ve, sờ chạm hoặc có ánh sáng, tiếng động…)
b. Những rối loạn khác đi kèm với tự kỷ:
* Rối loạn giác quan:
Nếu nhận thức của trẻ đã khá, trẻ có thể học được từ những gì chúng nhìn thấy, cảm thấy hoặc nghe thấy. Hoặc ngược lại nếu các thông tin từ giác quan bị sai lệch, những kinh nghiệm về thế giới có thể lẫn lộn. Nhiều trẻ tự kỷ có thể hòa nhập tốt hoặc thậm chí có nhạy cảm đau đối với một số âm thanh, loại vải, mùi vị. Một số trẻ không chịu đựng nổi khi quần áo chạm vào da. Một số âm thanh ví dụ như: máy hút bụi, chuông điện thoại, sấm chớp, ngay cả tiếng song vỗ vào bờ có thể khiến trẻ bịt tai và khóc thét lên. Ở trẻ tự kỷ, não thường tỏ ra khó cân bằng các cảm giác cho tương xứng. Một số trẻ tự kỷ không chú ý tới quá lạnh hoặc quá đau, chẳng hạn trẻ có thể tự đập đầu vào cạnh bàn làm lõm bên đầu nhưng không có cảm giác đau.
*Chậm phát triển trí tuệ
Nhiều trẻ tự kỷ bị chậm phát triển trí tuệ ở mức độ khác nhau. Ngay trong trắc nghiệm có nhiều lĩnh vực trẻ phát triển bình thường (ví dụ chép hình ảnh), nhưng nhiều lĩnh vực khác lại bị chậm (chẳng hạn ngôn ngữ).
*Co giật
Có khoảng ¼ trẻ tự kỷ bị động kinh. Đó là những cơn co giật có tính chu kỳ đi kèm với rối loạn tri giác. Trong cơn giật, trẻ hoàn toàn không biết mọi điều đang xảy ra xung quanh. Để chuẩn đoán thể động kinh cần cho trẻ đi khám chuyên khoa thần kinh và làm điện đồ não. Nhờ đó mà thầy thuốc có thể sử dụng các thuốc chống động kinh cho phù hợp.
*Hội chứng nhiễm sắc thể X gãy:
Đây là bệnh lý di truyền thường gặp trong chậm phát triển trí tuệ.Bệnh có tên Gãy. Hội chứng này gặp ở 2-5% người bị tự kỷ. Cần tìm nhiễm sắc thể X trong trường hợp cha mẹ trẻ muốn có 1 đứa con nữa. Nếu đã có một con bị tự kỷ nguy cơ của đứa thứ 2 sẽ là ½.
*U xơ thần kinh:
Là bệnh lý di truyền hiếm gặp với các u lành trong não trong cơ quan cơ thể. Có ¼ trẻ bị tự kỷ mắc chứng này.
2. Can thiệp sớm tự kỷ
Can thiệp đối với trẻ bị tự kỷ là 1 chương trình can thiệp toàn diện, lâu dài và cần có sự tham gia của mọi thành viên liên quan đến trẻ: cha mẹ, giáo viên và các chuyên gia. Trẻ cần được can thiệp từ nhiều phương diện: chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ, giáo dục và uốn nắn, hỗ trợ các kỹ năng cần thiết.
2.1 Điều trị thuốc
Các thuốc dùng để điều trị trong các nhóm rối loạn sau:
+ Mất ngủ
+ Rối loạn cảm giác ngon miệng: mất ngon miệng, phàm ăn…
+ Trầm cảm
+ Kém tập trung, chú ý, tăng động
+ Rối loạn lưỡng cực
+ Loạn thần
+ Hội chứng Tourette (hội chứng tic)
+ Động kinh
Các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần nhi sẽ cân nhắc sử dụng khi có chỉ định. Khi trẻ có những hành vi khó kiểm soát hoặc những vấn đề nêu trên cha mẹ cần đưa trẻ đến khám tại chuyên khoa tâm than nhi tại các bệnh viện hoặc bệnh viện nhi để được tư vấn kịp thời.
2.2 Can thiệp bằng chế độ ăn:
Để chứng minh một chế độ ăn có tác dụng trong điều trị tự kỷ cần phải có các nghiên cứu thử nghiệm khoa học. Tuy nhiên, một số báo cáo cho thấy chế độ ăn có ảnh hưởng đến kết quả can thiệp của tự kỷ. Cơ sở của việc áp dụng chế độ ăn là quan niệm: 1. Dị ứng thức ăn gây triệu chứng của bệnh; 2. Thiếu 1 vitamin đặc hiệu hoặc chất khoáng có thể gây 1 số triệu chứng của tự kỷ. Nhiều cha mẹ thấy cho trẻ ăn lúa mì, lúa mạch, sữa loại bỏ casein và gluten có thể giảm triệu chứng của bệnh tự kỷ. Nhưng có 1 số chất bổ sung dinh dưỡng như nhóm vitamin, chất khoáng… đã được dùng trong việc kiểm soát hành vi tự hại của trẻ. Việc dùng viatamin B6 liều cao, magnesium và DMG (dimethylglycine) để kiểm soát cơn kích động, các hành vi tự hại,.. có hiệu quả tốt trong nhiều trường hợp, khi tất cả các thuốc và các biện pháp can thiệp khác không có kết quả (Nghiên cứu của tiến sỹ B.Rimland, San Diego, Mỹ năm 2001).
2.3 Giáo dục hành vi
Hiện nay, phương pháp ứng dụng Phân tích hành vi được áp dụng phổ biến trên thế giới trong việc dạy hành vi cho trẻ tự kỷ. Nguyên tắc của nó là xây dựng những hành vi có lợi về mặt xã hội và hạn chế những hành vi xấu.Quan điểm phân tích hành vi nhìn nhận tự kỷ như 1 hội chứng khiếm khuyết về hành vi do tổn thương thần kinh. Nhưng có thể thay đổi được nhờ một hệ thống tác động từ môi trường có thiết kế thành một chương trình cẩn thận. Giáo dục phân tích hành vi tập trung vào dạy một hệ thống những phần nhỏ đo lường được của hành vi. Mọi kỹ năng của trẻ (xã hội, giao tiếp,tự chăm sóc,…) được chia thành những bước nhỏ để dạy. Việc dạy này phải được tiến hành một đối một, nhờ các kỹ thuật đặc biệt. Trung tâm ứng dụng khoa học tâm lý Sống Trẻ đang áp dụng phương pháp này.
2.4 Ngôn ngữ trị liệu
Dạy trẻ tự kỷ giao tiếp là một trong những kỹ năng quan trọng vì giao tiếp là một trong những phương tiện giúp trẻ bộc lộ nhu cầu, hạn chế được hành vi xấu giúp tăng cường kỹ năng xã hội của trẻ. Tùy mức độ phát triển về trí tuệ, khả năng của trẻ mà các chuyên gia ngôn ngữ có thể dạy trẻ giao tiếp bằng lời nói, bằng cử chỉ hoặc bằng hình hình vẽ. Trước hết khả năng giao tiếp, ngôn ngữ, các khả năng giao tiếp không lời,..của trẻ được đánh giá. Việc huấn luyện ngôn ngữ của trẻ cũng được tiến hành 1 cô 1 trẻ, hằng ngày hoặc cách ngày.
Kết quả huấn luyện giao tiếp phụ thuộc nhiều vào sự tham gia của cha mẹ, thời điểm bắt đầu sớm hay muộn, mức độ phát triển trí tuệ và các kỹ năng khác của trẻ.
2.5 Can thiệp qua các giác quan
Hầu hết trẻ tự kỷ có vấn đề giác quan hoặc quá nhạy cảm hoặc trơ với các kích thích từ môi trường xung quanh. Việc tăng cường nhận thức giác quan của trẻ chủ yếu nhằm vào những cảm giác: tiền đình (về vận động và thăng bằng), xúc giác (cảm giác sờ chạm) và cảm thụ bản thể (cảm giác về vị trí thân thể trong không gian). Những kích thích này được thực hiện hằng ngày vào những thời gian nhất định, dưới dạng các động tác ve vuốt nhẹ nhàng dọc theo các phần thân thể của trẻ; những bài tập hoặc các hoạt động vui chơi, đi cầu thăng bằng, ngồi xích đu,…Sau 1 thời gian thực hiện các hoạt động này hầu hết trẻ đều tiếp nhận kích thích một cách dễ dàng, thích thú.
- Kích thích thính giác
Hầu hết trẻ tự kỷ có nhạy cảm với âm thanh rất khác so với trẻ bình thường. Những chuyên gia làm việc với trẻ đều tháy trẻ khá nhạy cảm, bị hấp dẫn, cuốn hút bởi các âm thanh của chương trình quảng cáo hoặc ca nhạc. Ngược lại, âm thanh của lời nói, ngay cả giọng nói của mẹ, trẻ cũng ít tâm chú ý đến. Việc huấn luyện nghe cho trẻ nhằm thay đổi sự nhạy cảm đối với các âm thanh khác nhau của trẻ.
- Kích thích thị giác
Vấn đề thị giác của trẻ thường liên quan đến khả năng nhìn và quan sát bằng mắt của trẻ; tập trung kém và hay bị phân tán. Ngoài ra, trẻ cảm nhận màu sắc, hình khối cũng có sự ưu tiên với 1 số kích thích nhất định. Vì vậy, trẻ có thể rất dễ bị cuốn hút các vật có màu sắc nổi bật, đỏ, sặc sỡ; không thích, không chú ý tới những vật khác. Cảm nhận nhìn vật chuyển động cũng khác so với trẻ bình thường, nên nhận thức về mối quan hệ bản thân với đồ vật xung quanh bị hạn chế. Trẻ khó “quét ảnh” và lưu giữ các cử động trong trí nhớ; không có khả năng bắt bóng; luôn rất cẩn thận khi đi lên hoặc xuống cầu thang, dễ bị đâm bổ vào đồ đạc, hay đi nhón gót. Việc tập luyện nhìn kết hợp vận động trong 1-2 năm với kính mắt thấu kính lăng trụ sẽ giảm hoặc chữa trị khỏi những sai lệch về việc nhìn của trẻ.
2.6 Hoạt động trị liệu
Trẻ tự kỷ cần được dạy để tự chăm sóc: tự ăn uống, thay quần áo, tắm giặt, giữ vệ sinh. Trong đời sống hằng ngày, cảm giác đói, cảm giác khát hoặc mệt,…của trẻ không rõ rang, có thể giảm hoặc tăng quá mức so với trẻ bình thường. Trẻ cần được dạy để độc lập trong mọi hoạt động. Bên cạnh việc huấn luyện trẻ tự làm các hoạt động hằng ngày, một số kỹ năng như: di chuyển, vận động và các bài tập chạy nhảy, thể thao cũng rất cần thiết để tạo cho trẻ những cảm nhận đầy đủ về môi trường xung quanh.
2.7 Cải thiện kỹ năng xã hội:
Một trong những vấn đề quan trọng của trẻ là giao du kết bạn và duy trì tình bạn với cá trẻ khác cùng lớp. Trẻ thường có xu hướng co mình lại, không tự khởi đầu 1 câu chuyện hoặc mối quan hệ bạn bè. Lên lớp trên (cấp 1 hoặc cấp 2 trở lên) trẻ còn hay bắt nạt các bạn cùng lớp. Tình bạn có thể hạn chế sự hung hăng, bắt nạt của trẻ. Trẻ em hay chơi với nhau vì có cùng sở thích như : đọc truyện tranh, chơi máy tính, múa hát hoặc chơi bóng,…Việc tổ chức cho trẻ chơi chung với nhau giúp chúng có nhiều cơ hội dể chia sẻ. Việc cải thiện các kỹ năng xã hội bao gồm: cải thiện kỹ năng nhìn, giao tiếp, vui chơi, hành vi… được trình bày ở chương sau sẽ giúp trẻ phát triển một cách toàn diện và hòa nhập xã hội.
2.8 Dạy trẻ vui chơi
Vui chơi là cách học và tìm hiểu thế giới của trẻ. Nhờ đó mà trẻ tìm hiểu, khám phá được khả năng của bản thân và nhận thức được mối quan hệ giữa trẻ và các cá nhân khác trong gia đình và cộng đồng. Thông qua vui chơi, trẻ được tạo mối quan hệ với bạn bè, học được các quy tắc, luật lệ. Nhờ đó trẻ chuẩn bị cho mình những hiểu biết và kinh nghiệm cần thiết để bước vào cuộc sống xã hội. Có thể nói chơi là quá trình học rất quan trọng đối với trẻ trước tuổi đến trường. Đối với trẻ bị tự kỷ, chơi là càng có ý nghĩa hơn vì nó giúp trẻ tăng cường được sự cảm nhận phong phú về thế giới xung quanh, cải thiện kỹ năng xã hội và uốn chỉnh hành vi…Cha mẹ cần có nhận thứcđầy đủ về việc này vì chính cha mẹ có thể bắt đầu hỗ trợ trẻ ngay từ khi mới phát hiện, luôn ben cạnh trẻ và hiểu được trẻ nhất. Học cách chơi và cùng chia sẻ những kinh nghiệm với trẻ thong qua vui chơi, cha mẹ sẽ làm thay đổi hẳn cuộc sống của trẻ.
Cùng với vui chơi, dạy trẻ cách chăm sóc bản thân, sống 1 cách độc lập,..hỗ trợ trẻ các kỹ năng khác, cha mẹ phải là chỗ dựa vững chải cho trẻ trong những năm tháng tuổi trước và khi đã đến trường.
2.9 Sự tham gia của cha mẹ trẻ
Gia đình, cha mẹ và mọi người xung quanh trẻ là những người quan trọng nhất để can thiệp có hiệu quả. Đầu tiên, nhờ cha mẹ mà các khó khăn của trẻ được phát hiện, chuẩn đoán sớm. Việc cha mẹ tham gia can thiệp sớm là yếu tố quyết định. Có nhiều lý do khiến cha mẹ đóng vai trò quan trọng trong chương trình can thiệp sớm: giai đoạn trẻ dưới 3 tuổi, việc cho ăn uống , chăm sóc chiếm hầu hết khoảng thời gian trong hoạt động sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Tiếp theo, cha mẹ là người luon thường xuyên ở bên cạnh trẻ, mọi kỹ năng được học có được áp dụng thường xuyên và lien tục. Mọi dịch vụ cần thiết đối với trẻ đều được cha mẹ áp dụng. Chưa kể, việc áp dụng sớm các kỹ năng dạy trẻ có thể mang lại hiệu quả tuyệt vời và dễ dàng hơn so với việc bắt đầu can thiệp muộn.
***Kết luận: Tự kỷ là nhóm các khuyết tật về phát triển ở trẻ em. Do có nhiều kỹ năng phát triển bị rối loạn. Trẻ cần được phát hiện và can thiệp sớm, can thiệp toàn diện; kết quả hòa nhập xã hội sẽ khả quan hơn.